Trang chủ Tin tức Nghề làm cha mẹ Các giai đoạn phát triển ngôn ngữ của trẻ và những điều...

Các giai đoạn phát triển ngôn ngữ của trẻ và những điều ba mẹ cần biết

0
1543

Ba mẹ có biết, 6 năm đầu đời là thời kỳ mẫn cảm đặc biệt của trẻ về ngôn ngữ và chỉ đến một lần trong cuộc đời. Nếu ba mẹ bỏ qua giai đoạn “vàng” này, trẻ rất khó đạt tới độ phát triển ngôn ngữ tối ưu và toàn diện về trí tuệ, thể chất, tinh thần.

Cho nên, việc tận dụng tối đa “thời kì mẫn cảm” của trẻ để phát triển các yếu tố nhạy cảm về trí tuệ ngôn ngữ vô cùng cần thiết. Sự thẩm thấu ngôn ngữ ngay từ khi còn nhỏ của trẻ được đặc trưng bởi các mốc phát triển ngôn ngữ trong khoảng từ 0 đến 6 tuổi.

Và những thông tin dưới đây sẽ giúp ba mẹ hiểu rõ hơn về những giai đoạn phát triển ngôn ngữ của trẻ để có những tác động vào cơ chế phát triển, thụ đắc ngôn ngữ tự nhiên ở trẻ một cách phù hợp và hiệu quả.

1. Giai đoạn nằm trong bụng mẹ

Trẻ bắt đầu nhận thức ngôn ngữ ngay từ khi còn trong bụng mẹ khi bộ não của trẻ được kích hoạt ngay từ những ngày cuối thai kỳ. Trong giai đoạn này, thai nhi tiếp xúc và làm quen với nhiều loại âm thanh khác nhau. Đầu tiên là âm thanh của nhịp tim đập, tiếng chuyển động của bản thân mình, tiếng nhạc mà mẹ cho nghe, giọng nói của mẹ, tiếng cưng nựng của bố,… dần dần là các âm thanh phức tạp tiếng nhạc, tiếng động từ hoạt động của mọi người xung quanh.

Những nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rõ rằng ngay từ khi còn nằm trong bụng mẹ, trẻ đã có những hoạt động có tính chất ngôn ngữ đầu tiên. Khi ở vào tuần tuổi 24 – 27, thai nhi đã học được những đặc trưng âm thanh cơ bản của ngôn ngữ mẹ đẻ như là nhịp điệu, độ cao, độ dài của âm thanh. Và cho đến khi được sinh ra, trẻ đã có thể nhận biết một vài âm mà chúng đã được tiếp xúc thường xuyên, liên tục ngay từ khi còn nằm trong bụng mẹ. Chính vì thế, cho trẻ nghe nhạc hay trò chuyện với trẻ ngay từ lúc chưa sinh ra trong giai đoạn cuối thai kì là một việc mà bất kì bậc cha mẹ nào cũng nên làm.

2. Giai đoạn 0 đến 3 tháng tuổi

Ngay từ lúc sinh ra, trẻ đã có thể phát ra những âm thanh nho nhỏ, mặc dù năng lực thính giác chưa có biểu hiện rõ ràng. Đến tháng thứ hai, trẻ đã có thể bắt đầu phát ra những tiếng ọ ẹ, hay tạo ra những tiếng kêu khe khẽ thích thú. Cũng ở tháng thứ hai, trẻ đã có thể hướng đầu tới phía nguồn phát ra âm thanh, bắt đầu chú ý đến những âm thanh quen thuộc, bắt đầu biết lắng nghe tiếng trò chuyện quanh mình, và cũng biết phản ứng lại các âm thanh to và lạ bằng cách giật mình. Trẻ đã có thể bắt đầu cười ra tiếng khi tiếp xúc với cha mẹ và người thân.

Bắt đầu từ 4 tháng tuổi trở đi, khả năng phản xạ lại âm thanh thu nhận được của trẻ trở nên rõ rệt hơn. Trẻ có thể tự tạo ra các âm thanh đơn giản của chính mình hoặc đáp lại những âm thanh của người khác một cách tự nhiên hoặc bằng cử chỉ.

Ngay ở cuối giai đoạn này, trẻ đã có thể phân biệt một số tương tác bề ngoài tốt hay xấu với trẻ. Ví dụ bẹo má nhẹ kèm lời mắng yêu có thể làm cho trẻ khóc thét, do trẻ chưa hiểu được ý nghĩa của các hành vi đó. Nhưng dần dà về sau, trẻ đã có thể nhận ra các âm thanh có mục đích và đã có thể dần có những hành vi đơn giản để đáp ứng lại, ví dụ như trẻ có thể đái khi được xi, trẻ dễ dàng đi vào giấc ngủ hơn khi nghe tiếng ru,… Ở cuối giai đoạn, trẻ đã có thể phân biệt được giọng nói của mẹ và giọng nói của người khác. Đặc biệt, với một số trẻ phát triển sớm, hỏi bố đâu, mẹ đâu là trẻ đã có thể quay người để đi tìm và có thể tìm đúng, dù không phải lần hỏi nào cũng có thể đáp ứng được.

3. Giai đoạn từ 3 đến 6 tháng tuổi

Bước sang tháng thứ tư, nhìn chung trẻ đã có thể tạo ra nhiều âm ê a khác nhau, biết nâng cao giọng ê a của mình một cách tự nhiên. Trẻ bắt đầu biết tập trung chú ý, quan sát tỉ mỉ cử động và hình dáng miệng của người lớn khi người lớn nói chuyện với trẻ. Ở tháng thứ năm, trẻ đã tự mình phát ra được một số âm, chủ yếu là nguyên âm, khi tiếp xúc với người hoặc vật, hoặc trong lúc chơi một mình. Bước sang tháng thứ sáu, nói chung trẻ đã biết quay đầu hướng sang phía người gọi tên mình và đã có thể phát ra và lặp đi lặp lại những âm tiết (chưa có nghĩa) đầu tiên.

4. Giai đoạn từ 6 đến 12 tháng tuổi

Bước vào giai đoạn này, những thành tựu ngôn ngữ mà trẻ có được ở giai đoạn trước phát huy mạnh mẽ. Năng lực nghe và phát âm của trẻ tiến bộ rõ rệt. Từ những tiếng bập bẹ nói gọi pa pa, ma ma, da da,… trẻ bắt đầu có những phát triển rõ rệt hơn về mặt ngôn ngữ. Số từ mà trẻ có thể hiểu có thể lên tới con số hàng trăm, trong đó trẻ dễ phản ứng theo những từ như bà, mẹ, bố, hôn, thơm, tạm biệt, há miệng, bế, đi chơi, về, đi làm, bú, ti,… Đồng thời, trẻ cũng đã nhận biết và có phản ứng phù hợp và rõ ràng với những lời nói tích cực (âu yếm, cưng nựng, cười đùa), những lời nói tiêu cực (tiếng quát mắng, cáu giận) hay lời nói “không” của cha mẹ.

Cuối giai đoạn 6-12 tháng tuổi, trẻ có thể bập bẹ những âm thanh đầu tiên của ngôn ngữ mẹ đẻ của mình. Những từ đó thường là những từ bà, mẹ/ mạ, ba, nhăm, măm,… Khi nói ra được những từ như vậy thì trẻ cũng đã bắt đầu biết kết hợp giữa cử chỉ và ngôn ngữ của mình để thực hiện các yêu cầu đơn giản.

5. Giai đoạn 12 đến 18 tháng tuổi

Đa số trẻ có thể nói ra những từ đầu tiên của ngôn ngữ mẹ đẻ khi tròn một tuổi. Bắt đầu từ đây, quá trình học ngôn ngữ của trẻ bước sang một giai đoạn mới, giai đoạn mà trẻ sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ một cách chính thức để tiến hành giao tiếp. Đến 18 tháng tuổi, trẻ đã phát hiện ra rằng mỗi sự vật, hiện tượng, hành động đều có tên gọi riêng của mình. Đây chính là điểm xuất phát khiến trẻ có thể bước vào giai đoạn bùng phát ngôn ngữ ở thời kì tiếp theo.

Trẻ đã có thể nghe hiểu và đáp ứng các hành vi định danh và mệnh lệnh thân thuộc. Ở cuối giai đoạn này, khi hỏi trẻ những câu hỏi như ở đâu, cái gì, chúng ta sẽ nhận được những câu trả lời thường xuyên và ổn định hơn trước nhiều, do chỗ trẻ đã biết gọi tên một số vật quen thuộc với mình, đã biết sử dụng ngón trỏ đi kèm lời nói.

6. Giai đoạn 18 đến 24 tháng tuổi

Đến giai đoạn này, trẻ đã nhận biết và sử dụng được tên gọi của người quen, đồ vật quen thuộc trong nhà, các bộ phận cơ thể. Trẻ biết lắng nghe những câu chuyện ngắn, tập trung quan sát cuộc nói chuyện của người lớn, dễ dàng lặp lại những từ nghe lỏm được, và biết nghe theo các chỉ dẫn, hiệu lệnh đơn giản mà không cần có cử chỉ hay hành động đi kèm.

7. Giai đoạn 18 đến 24 tháng tuổi

Đến giai đoạn này, trẻ đã nhận biết và sử dụng được tên gọi của người quen, đồ vật quen thuộc trong nhà, các bộ phận cơ thể. Trẻ biết lắng nghe những câu chuyện ngắn, tập trung quan sát cuộc nói chuyện của người lớn, dễ dàng lặp lại những từ nghe lỏm được, và biết nghe theo các chỉ dẫn, hiệu lệnh đơn giản mà không cần có cử chỉ hay hành động đi kèm. Cuối giai đoạn, trẻ có thể tự đặt những câu hỏi như cái gì? đi đâu?…

8. Giai đoạn từ 24 đến 36 tháng tuổi

Bước sang tuổi thứ hai, trẻ bước sang giai đoạn bùng phát về mặt ngôn ngữ trên cả phương diện từ vựng lẫn phương diện tổ chức ngôn ngữ. (Cũng bắt đầu từ đây, cá tính của trẻ đã được bộc lộ). Ở giai đoạn này, trẻ học từ mới rất nhanh. Năng lực sử dụng từ ngữ cũng được cải thiện đáng kể, có thể gây ngạc nhiên cho người lớn.

Trẻ không chỉ học cách gọi tên sự vật, hiện tượng, mà còn học cả những từ chỉ quan hệ ngữ pháp (cái, của, rồi, chưa, à,…). Trẻ thường xuyên nói chuyện một mình, nói chuyện với đồ chơi, quan sát và bắt chước lời nói của người lớn (cũng như bắt chước làm theo việc người lớn làm). Đến ba tuổi, trẻ có thể có 1.000 từ. Câu nói của trẻ dài năm – sáu âm tiết, thậm chí chín – mười âm tiết. Năng lực và nhu cầu thực hiện các hành động ngôn ngữ tăng lên đáng kể – các nhu cầu, mong muốn của trẻ đều có thể được thể hiện trực tiếp bằng các hành động ngôn ngữ (Con muốn uống. Đái tè…). Trẻ có thể hiểu, nhớ và làm theo một số mệnh lệnh đơn giản liên tiếp (đi ra ngoài, đóng cửa; bê ghế, ngồi vào bàn,…).

9. Giai đoạn 3 – 6 tuổi

Đây là giai đoạn mà chúng ta sẽ chứng kiến sự phát triển vượt bậc về chất và lượng trong ngôn ngữ trẻ. Ở giai đoạn này, các lỗi cơ bản về cách phát âm, ngữ pháp, cách sử dụng từ ngữ đã được trẻ tự khắc phục, loại bỏ dần dần. Trẻ dễ dàng nói được các câu có năm-sáu từ. Đến năm tuổi, trẻ có thể đã có khoảng 5.000 từ. Trẻ nói đã rõ ràng, với một đứa trẻ nói ngọng, người lạ cũng có thể hiểu đến 75% những gì chúng nói.

Trẻ gần như có thể hiểu hết những gì nghe được hay chủ động tiếp xúc. Thời điểm này, trẻ đã khá thành thục với ngôn ngữ mẹ đẻ. Trẻ có thể bắt chước lời nói của người lớn một cách chính xác. Trẻ cũng có thể phát âm chính xác các chữ cái hay các âm riêng rẽ khi chúng ta dạy trẻ, kể cả những chữ cái hay âm không có trong ngôn ngữ mẹ đẻ. Các kĩ năng giao tiếp được phát triển rất nhanh. Trẻ biết chủ động gây sự chú ý hay thiết lập quan hệ bằng lời nói (như rủ bạn chơi).

Với những giai đoạn phát triển ngôn ngữ của trẻ nêu trên, có thể nhận thấy rằng, 6 năm đầu đời đặc biệt quan trọng đối với trẻ. Chính vì vậy, ba mẹ hãy chú trọng tới thời điểm “vàng” này để khơi gợi tiềm năng sẵn có và mang tới cho con một môi trường sẵn sàng để phát triển ngôn ngữ tốt nhất.

Hi vọng những thông tin trên hữu ích với ba mẹ.